Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ Việt Nam, nằm
trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh lỵ của
Bình Thuận là thành phố Phan Thiết nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 183 km về
phía Nam, cách Nha Trang 250 km và cách thủ đô Hà Nội 1.520 km về phía Bắc theo
đường Quốc lộ 1A. Bình Thuận có biển dài 192 km kéo dài từ mũi Đá Chẹt giáp Cà
Ná thuộc Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu.
Vị trí địa lý
Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ Nam
sang Tây của phần còn lại của Việt Nam trên bản đồ hình chữ S, có tọa độ địa lý
từ 10o33'42" đến 11o33'18" vĩ độ Bắc, từ 107o23'41" đến
108o52'18" kinh độ Ðông. Phía Bắc của tỉnh Bình Thuận giáp với tỉnh Lâm Đồng,
phía Đông Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, và phía Tây
Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu, ở phía Đông và Nam giáp Biển Đông với đường bờ biển
dài 192 km.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình Bình Thuận chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng ven
biển nhỏ hẹp, địa hình hẹp ngang kéo theo hướng đông bắc - tây nam, phân hoá
thành 4 dạng địa hình chính gồm đất cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22%, đồng
bằng phù sa chiếm 9,43%, vùng đồi gò chiếm 31,65% và vùng núi thấp chiếm 40,7%
diện tích đất tự nhiên.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhiều
nắng, nhiều gió, không có mùa đông và khô hạn nhất cả nước. Khí hậu nơi đây
phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. nhưng trên thực
tê mùa mưa chỉ tập trung vào 3 tháng 8, 9 và tháng 10, vì vậy mùa khô thực tế
thường kéo dài.
Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau, có kiểu rừng
gỗ lá rộng, kiểu rừng rụng lá, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế, kiểu rừng
hỗn giao và tre nứa thuần loại. Bên cạnh đó, Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng
sản đa dạng về chủng loại như vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi
khoáng khác. Trong đó, nước khoáng, sét, đá xây dựng có giá trị thương mại và
công nghiệp.
Sông ngòi tại Bình Thuận đều ngắn, lượng nước không điều
hòa, mùa mưa thì nước sông chảy mạnh, mùa nắng làm sông bị khô hạn. Tỉnh có bốn
sông lớn là sông Lũy, sông Lòng Sông, sông Cái và Sông Cà Ty.
Sông Lòng Sông phát nguyên từ dãy núi ranh giới hai tỉnh
Ninh Thuận-Bình Thuận, chảy theo chiều Bắc-Nam dọc theo ranh giới hai quận Tuy
Phong và Phan Lý Chàm. Sông này dài khoảng 40 cây số (từ nguồn ra đến cửa biển).
Sông Lũy phát nguyên từ cao nguyên Tuyên Đức.Từ nguồn đến
ranh giới quận Hòa Đa, sông chảy theo hướng Bắc-Nam, dài 40 cây số; rồi rẽ ra đến
biển, sông chảy theo hướng Tây-Đông và dài hơn 20 cây số, lòng sông hẹp, quanh
co, vào mùa mưa thường gây lụt lội.
Sông Cái phát nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy qua địa phận
Thiện Giáo, rồi chảy theo hướng Bắc-Nam và dài khoảng 40 cây số.
Sông Cà Ty phát nguồn từ cao nguyên phía Tây và chảy theo hướng
Đông-Nam, dài 27 cây số.
Hành chính
Bình Thuận có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 Huyện, Trong đó có
với 127 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 12 thị trấn, 19 phường và 96 xã.
Dân cư
Tính đến 2015 dân số của tỉnh đạt 1.266.228 người. 49% dân số
sống ở đô thị và 51% dân số sống ở nông thôn. Dân cư tỉnh phân bô không đồng đều
giữa các huyện, thị xã, thành phố. Tập trung đông nhất tại Thành phố Phan Thiết
dân số (2015): 272.457 chiếm gần 1/4 dân số toàn tỉnh, tiếp đến là Phan Rí Cửa,
Thị xã La Gi. Thưa thớt tại các huyện Bắc Bình, Tánh Linh, Hàm Tân.
Có 34 dân tộc cùng sinh sống ở Bình Thuận, trong đó đông nhất
là dân tộc Kinh; tiếp đến là các dân tộc Chăm, Ra Glai, Hoa (tập trung nhiều ở
phường Đức Nghĩa - thành phố Phan Thiết), Cơ Ho, Tày, Chơ Ro, Nùng, Mường.
Văn hoá
Bình Thuận có bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời, nhất là văn
hoá Chăm pa với nhóm di tích Tháp Po Sah Inư, đền thờ Po Klong Mơhnai và hơn
100 bảo vật hoàng tộc Chăm nguyên gốc quý hiếm được bà Nguyễn Thị Thềm, hậu duệ
vua Chăm lưu giữ, trong đó có vương miện, áo bào, hia hài, vòng xuyến của vua
và hoàng hậu.
Người Chăm là một trong những người đầu tiên phát hiện ra
công dụng của nước khoáng Bình Thuận. Họ đã dùng nước khoáng này chữa bệnh và
chế nước thơm rửa tượng thánh. Bằng nước khoáng Bình Thuận, vào thế kỷ 13, người
Chăm đã chữa khỏi bệnh phong cho vua Chế Mân của họ. Công chúa Huyền Trân, con
gái vua Trần và cũng là hoàng hậu của vua Chế Mân rất ngạc nhiên về sự màu nhiệm,
huyền bí của suối nước này nên đã đặt tên suối là Vĩnh Hảo (nghĩa là "đời
đời tốt đẹp"). Người Pháp cũng khai thác nước khoáng Vĩnh Hảo từ năm 1920.
Đến nay, nước khoáng Vĩnh Hảo đã nổi tiếng trong nước và đang từng bước vươn ra
xuất khẩu trên thị trường các nước trong khu vực và thế giới.