Đình làng Đức Nghĩa – độc đáo nét văn hóa, lịch sử của vùng đất Bình Thuận xưa
Lượt xem: 309

(binhthuan.gov.vn) Văn hóa truyền thống miền biển Bình Thuận nói chung, Phan Thiết nói riêng luôn gắn liền với các di tích đình làng, dinh vạn. Nếu dinh vạn là nơi thờ Thần Nam Hải phò trợ nghề biển, thì đình làng là nơi thờ tự Thần hoàng và những vị Tiền hiền, Hậu hiền có công dựng làng, lập ấp. Đình làng Đức Nghĩa là một di tích như thế.

Lịch sử hình thành của đình làng Đức Nghĩa gắn chặt với lịch sử hình thành của vùng đất Phan Thiết. Thời xa xưa, địa hình Đức Nghĩa là một động cát cao nằm ven sông Phan Thiết, dọc bờ sông là những đám cây mọc dày đặc. Theo một số tài liệu, vào những năm đầu thế kỷ 19, những ngư dân Quảng Nam đã đến đây lập nghiệp, dần dần tập họp được 20 hộ với hơn 100 người, hình thành một vùng tụ cư có tên là thôn Thành Đức. Tại đây, ông Nguyễn Văn Bàn chủ trì việc xây cất đình làng vào năm Bính Ngọ (tức năm 1846) bằng tranh lá đơn sơ. Đến năm 1864, do yếu tố phong thủy nên ông Trần Văn Kim vận động dân làng dời đình về vị trí hiện nay thuộc khu phố 6, phường Đức Nghĩa.

Đình làng Đức Nghĩa nhìn từ trên cao

Đình làng Đức Nghĩa có dạng hình chữ Đinh (丁) theo lối kiến trúc dân gian thế kỷ 18 -19. Đình có khuôn viên rộng hơn 3.000m2, tọa lạc trên một đồi cát cao thường được gọi là động cát làng Thiềng (tên gọi trại của làng Thành Đức). Hướng đình quay về phía Tây, lệch Bắc 15 độ, đây cũng là hướng nhìn ra sông Cà Ty. Phía trước đình xây tường đá cao 3,5m để chống cát lở đồng thời tôn cao ngôi đình. Trước kia, mặt trước của đình là một hồ sen lớn, tuy nhiên do quá trình đô thị hóa, hồ sen này đã không còn.

Gian thờ Tiền hiền - Hậu hiền được xây dựng vào năm 1879 với hai con Nghê đứng trước lối vào canh gác

Đối diện với đình, từ trái sang phải là nhà Tiền vãng, gian thờ Tiền hiền - Hậu hiền, đình thờ Thành hoàng. Các gian thờ được bố trí thành hàng ngang và có lối kiến trúc như đình chính nhưng chiều dài có phần kéo ra hơn, đây cũng là đặc trưng của kiến trúc đình làng nửa sau thế kỷ 19 ở Bình Thuận. Nối liền đình thờ Thành hoàng về phía trước là Nhà Võ ca, nơi được sử dụng để tổ chức diễn tuồng khi cúng tế, cũng như hội họp việc làng.

Khu vực đình chính thờ Thành hoàng

Tiền Hiền của làng đang thờ tại đình gồm các ông: Nguyễn Văn Bàn, Trần Văn Kim, Lê Văn Hanh, Nguyễn Văn Thạnh. Đây là những người đại diện cho các họ có công khai khẩn lập làng, dựng đình mà tên tuổi của họ đã được dân làng trân trọng khắc ghi trong bài vị thờ ở đình.

Trong khuôn viên đình làng Đức Nghĩa có hai ngôi mộ của hai bậc Tiền hiền là Nguyễn Văn Bàn và Hậu hiền Nguyễn Văn. Hai ngôi mộ này trước đây ở chùa Ngọc Cát (tên gọi khác là chùa Cốc). Ngoài các gian thờ còn có miếu thờ Sơn Quân. Cũng cần phải nói thêm rằng, làng Thành Đức nơi đặt đình ngày xưa xung quanh cây cối bụi bờ, cụm rừng trên động cát rậm rạp. Thỉnh thoảng cọp bên Văn Thánh, Phú Tài lội sông qua để kiếm mồi khiến cuộc sống của người dân nơi đây bị đe dọa, chính vì thế người dân đã lập miếu thờ “Ông Hổ” bên cạnh miếu thờ Thành hoàng.

Miếu thờ Sơn Quân tại đình làng Đức Nghĩa

Theo tín ngưỡng, việc người dân thờ Sơn Quân để phù hộ và tạo niềm tin cho người đi khai hoang, lập ấp. Dân gian cho rằng, ngày xưa không làng nào dám cử chức Hương cả là chức vụ đứng đầu làng. Chức vụ này phải nhường cho Sơn Quân, còn con người chỉ làm chức vụ thứ nhì là Hương chủ. Mỗi năm, khi cúng miễu, đình, dân làng có bài sớ/tờ cử với nội dung biết ơn Sơn Quân và suy cử làm Hương cả. Đồ cúng gồm đầu heo để trên bàn thờ. Trong đêm hoặc lúc không ai ngờ, Sơn Quân nhận tờ suy cử mới cùng đầu heo và để lại tờ cử năm trước.

Kiến trúc mái đình

Toàn bộ mái đình đều lợp ngói âm dương, nền lát gạch Bát Tràng. Tường được xây bằng đá, vôi vữa vững chắc. Kỹ thuật chạm trổ cũng như các họa tiết trang trí ngoại thất, nội thất thể hiện một cách sắc sảo, mềm mại. Từ lúc tạo dựng cho đến nay, đình làng Đức Nghĩa đã trải qua nhiều lần tu bổ nhưng toàn bộ công trình vẫn bảo lưu khá nguyên vẹn những đường nét cổ kính vốn có giữa một không gian đô thị hiện đại.

Ông Trần Ngọc Thành, Phó Ban quản lý di tích, kiêm Trưởng Ban nghi lễ của đình làng Đức Nghĩa

Theo ông Trần Ngọc Thành, Phó Ban quản lý di tích, kiêm Trưởng Ban nghi lễ của đình làng Đức Nghĩa cho biết: “Ban đầu, đình được xây dựng bằng tre nứa, lá. Sau đó, được kiên cố hóa bằng gạch, vôi, vữa xi măng, mái ngói âm dương, nền lát gạch bát tràng”.

Bàn thờ Thành hoàng trong Đình làng Đức Nghĩa

Nội thất của đình làng Đức Nghĩa khá ấn tượng, nhất là ở phần trang trí nghệ thuật chạm khắc bên trong đình chính với hệ thống bao lam bằng gỗ, như bức rèm như xuống các khám thờ sống động bởi những dây leo, hoa lá, chim muông từ những chạm khắc của người thợ xưa. Nghệ thuật trang trí của đình cả ngoại thất và nội thất phối hợp với nhau tạo nên những đường nét kiến trúc cổ hài hoà và đạt đến đỉnh cao so với một số ngôi đình trong thời kỳ này.

Khu vực nhà Võ ca

Sự tinh xảo còn được thể hiện rõ trong nội thất của nhà Võ ca, các vì kèo trong khu vực này được chạm khắc, gờ chỉ 06 cạnh mềm mại. Con đội được tạo dáng với phần thân hình quả bầu, đặt trên chân đế có hình con chim đang tung cánh, thân đế khắc các vân xoắn nổi lên như những bông hoa đang nở. Nối với hai con đội là thanh xà gồ với dòng chữ “Tự Đức Giáp Tý mạnh hạ cốc đán tạo”.

Thanh xà gồ trong nhà Võ ca

“Theo dòng chữ khắc trên thanh xà gồ nhà Võ ca ‘Tự Đức Giáp Tý mạnh hạ cốc đán tạo’, có nghĩa là tạo lập vào mùa hè năm Tự Đức thứ 17 - Giáp Tý 1864. Nhà Võ ca chính là công trình được xây dựng sớm nhất của đình làng Đức Nghĩa”, ông Thành chỉ lên thanh xà gồ trong nhà Võ ca và nói.

Bản sao các sắc phong được trưng bày trong khu nhà Tiền vãng

Ngoài những kiến trúc, cổ vật lưu giữ hàng trăm năm. Đình làng Đức Nghĩa còn lưu giữ các văn tự vô giá cả về ý nghĩa vật chất và tinh thần, đó là các sắc phong (văn bản do nhà Vua ban cho các địa phương, dòng họ, quan chức, Thành hoàng,… nhằm lấy đó làm căn cứ để thờ cúng các vị thần linh và nhân vật được tôn vinh) của các đời vua Triều Nguyễn ban tặng cho Thành hoàng cùng các vị khác.

Kiến trúc bên trong gian thờ Tiền hiền, Hậu hiền – Đây cũng là nơi lưu giữ và thờ cúng bản gốc các sắc phong được nhà Vua ban

Nói về các sắc phong này, ông Thành thông tin: “Đình làng khi tạo dựng đã được các vua triều Nguyễn sắc phong Thành hoàng cho 03 người. 01 người Việt là ngài Văn Khánh Hầu Thành hoàng tôn thần, 02 vị kia là Nhân thần (người có công lao to lớn với dân với nước, sau khi chết họ được phong làm thần cai quản các vùng đất và được dân chúng lập đền thờ) của người Chăm là Cẩn Ma La Thành hoàng tôn thần và Ma Yết Hầu Thành hoàng tôn thần”.

“Các đời vua Nguyễn từ thời vua Tự Đức đến vua Khải Định đã phong 17 sắc thần cho các vị giúp dân an cư lạc nghiệp. Trong đó, có Thành hoàng làng, Sơn thần, Thủy thần, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Ma Yết Hầu Thành hoàng”, ông Thành cho biết thêm.

Sự xuất hiện của các vị Nhân thần người Chăm trong đình làng Đức Nghĩa cho thấy quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa hai nền văn hóa Việt - Chăm trên mảnh đất Bình Thuận. Đây còn là minh chứng cho thấy cộng đồng người Chăm đã gắn bó với vùng đất Bình Thuận qua nhiều thế kỷ và cùng với các dân tộc anh em khác trên vùng đất này đóng góp xây dựng, làm phong phú thêm nền văn hóa của Bình Thuận nói riêng và của Việt Nam nói chung.

Đình làng Đức Nghĩa còn là cơ sở Việt Minh thời kháng Pháp. Năm 1991, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia./.

Hữu Tri

Video tuyên truyền
  • Năm du lịch quốc gia Bình Thuận 2023
  • Bãi biển lagi ở Bình Thuận rất đẹp
  • Top 10 địa điểm du lịch nổi tiếng Phan Thiết
  • Bình Thuận Nông thôn mới 12-9-2019
  • Buổi sáng nơi Cảng cá Cồn Chà Bình Thuận
  • Đảm bảo hoạt động kinh tế và đời sống tại Bình Thuận phát triển ổn định
  • Phóng Sự Làng Chài Mũi Né
  • Khu du lịch Biển Đá Vàng
  • Du lịch Tà Cú - Bình Thuận
  • Mũi Kê Gà - Phan Thiết đẹp bất ngờ
1 2 
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tháng hiện tại: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1