Cần sớm ban hành chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức chuyên trách về công nghệ thông tin trong cơ quan thuộc hệ thống chính trị
Đó
là một trong những nhiệm vụ cụ thể, rất quan trọng đã được Chính phủ chỉ đạo
tại Nghị quyết số 26/NQ-CP, ngày 15/4/2015 về ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng,
phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập
quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Hoài Anh, Ủy viên dự khuyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND
tỉnh chủ trì Hội nghị trực tuyến từ Tỉnh đến 10 huyện, thị, thành ủy về Tổng
kết 10 năm thực hiện Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị
Trước
đó, đã có các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước và hướng
dẫn của các cơ quan chuyên môn của Chính phủ đã quy định về việc
này, cụ thể như: Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ban hành ngày
29/6/2006, tại khoản 1 Điều 44 quy định: “Người hoạt động chuyên trách về ứng dụng
và phát triển CNTT trong các cơ quan nhà nước được hưởng chế độ ưu đãi về điều
kiện làm việc”; Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ, tại
Điều 23 quy định: “Cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin trong các cơ
quan nhà nước được hưởng chính sách hỗ trợ về điều kiện làm việc, gồm: Ưu đãi
về sử dụng cơ sở hạ tầng thông tin và trang thiết bị; Ưu đãi về đào tạo, nâng
cao trình độ công nghệ thông tin… Khuyến khích các cơ quan nhà nước ban hành
quy định ưu đãi về thu nhập cho nhân lực công nghệ thông tin trong cơ quan
mình”.
Căn
cứ vào đó, nhằm thu hút được nguồn nhân lực công nghệ thông tin, đảm bảo đội
ngũ cán bộ công nghệ thông tin ổn định làm việc lâu dài trong các cơ quan Đảng,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị tỉnh và Cơ quan Nhà nước 03 cấp
(Tỉnh , huyện, xã), đã có nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành
chính sách ưu đãi cho cán bộ công nghệ thông tin như: Hà Nội, Vĩnh Phúc,
Lào Cai, Tiền Giang, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Định, Bình Dương, Hà
Tĩnh, Hà Giang, Khánh Hòa. Nổi bật về chính sách là tỉnh Bình Dương đã và đang
thực hiện Nghị quyết về chế độ ưu đãi cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác CNTT, viễn thông trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm
2009, đối tượng áp dụng là công chức, viên chức được bố trí làm chuyên trách hoặc
bán chuyên trách về CNTT, viễn thông và cán bộ lãnh đạo, quản lý trực tiếp chỉ
đạo công tác CNTT, phạm vi áp dụng từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở của các cơ quan Đảng, đoàn thể, hành chính, sự nghiệp,
cụ thể như sau: cơ quan hoặc bộ phận
chuyên trách về CNTT cấp tỉnh; cơ quan đang quản lý cơ sở dữ liệu của tỉnh
hoặc cổng thông tin điện tử của tỉnh; các cơ quan không quản lý cơ sở dữ liệu của
tỉnh nhưng có website cung cấp dịch vụ công trực tuyến từ mức độ 2 trở lên và đạt
trên 50% nhiệm vụ được giao; cơ quan hoặc bộ phận chuyên trách về CNTT cấp huyện;
các cơ quan cấp huyện có mạng trên 10 máy tính; Ủy ban nhân dân cấp xã có mạng
từ 4 máy tính trở lên.

Đồng chí Nguyễn
Thị Thắng – Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Tổ trưởng Tổ Thẩm định công nghệ thông
tin khối Đảng tại buổi làm việc với Huyện ủy Tuy Phong về ứng dụng công nghệ
thông tin
Đối
với tỉnh Bình Thuận, trong những năm qua, ứng dụng Công nghệ thông tin
trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
chính trị tỉnh và Cơ quan Nhà nước 03 cấp (Tỉnh , huyện, xã) tỉnh nhà và trong
toàn xã hội đã và đang rất được quan tâm. Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đã ban hành các
Chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch tập trung chỉ đạo triển khai thành
công nhiều Đề án công nghệ thông tin. Riêng về chế độ chính sách cho cán bộ
công nghệ thông tin, Tỉnh rất quan tâm, từ năm 2011, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1170/QĐ-UBND, ngày 26/5/2011 của
UBND tỉnh về việc chi trợ cấp cho cán bộ quản trị mạng; với chính sách này đã
và đang hỗ trợ, trợ cấp, phụ cấp phần nào đó giúp cho cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động phụ trách công nghệ thông tin; Tuy nhiên, mức hỗ trợ rất
thấp chỉ bằng 0,17 lần mức lương tối thiểu.
Trong
giai đoạn tới, hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh Bình Thuận
tiếp tục được phát triển mở rộng và giữ vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và giữ vững quốc
phòng an ninh. Trong đó, mục tiêu của tỉnh Bình Thuận đến năm 2030 (theo Nghị
quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy) là phát triển
chính quyền số, kinh tế số và xã hội số; đổi mới căn bản, toàn diện về phương
pháp, cách thức hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của hệ thống chính trị, quản trị
nhà nước, doanh nghiệp và phương thức sống, làm việc của người dân thông qua
chuyển đổi số. Phát triển kinh tế số góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
tỉnh cao hơn. Phấn đấu đến năm 2030, tỉnh Bình Thuận nằm trong nhóm 20 tỉnh,
thành phố dẫn đầu cả nước về chuyển đổi số.
Trước
tình hình đó, việc ban hành chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức
chuyên trách về công nghệ thông tin trong cơ quan thuộc hệ thống chính
trị là hết sức cần thiết, nhằm tạo động lực, nâng cao vai trò,
trách nhiệm nguồn nhân lực CNTT góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp CNTT của Tỉnh.
Mức
ưu đãi hiện nay cho các bộ chuyên trách CNTT tại một số tỉnh, thành phố đã ban
hành vào khoảng 2,0 lần mức lương tối thiểu cho cán bộ có trình độ đại học và
2,5 – 3,0 lần mức lương tối thiểu cho cán bộ có trình độ sau đại học. Dựa trên
tiềm năng phát triển cũng như khả năng nguồn lực tài chính của tỉnh Bình Thuận,
các Cơ quan Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng mức ưu đãi phù hợp để đảm bảo tạo
dựng được nguồn nhân lực CNTT bền vững cho tỉnh và góp phần quan trọng trong sự
thành công Nghị quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy Bình Thuận.
LTT_NTN