Một số điểm mới của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024
(binhthuan.gov.vn) Không được cho trẻ dưới 10 tuổi và
cao dưới 1,35m ngồi cùng hàng ghế tài xế; Xe đưa đón
trẻ em mầm non, học sinh phải có thiết bị cảnh báo,
chống bỏ quên trẻ; Bổ sung trường hợp xe mô tô hai
bánh, xe gắn máy được chở tối đa 02 người/xe; Loại
biển số xe không được định danh; Cho phép đấu giá
biển số xe máy, giá khởi điểm từ 5 triệu đồng; Giấy
phép lái xe có 12 điểm, nếu vi phạm sẽ bị trừ; Thay
đổi phân hạng giấy phép lái xe và tăng độ tuổi tối
đa của người lái xe là một số điểm mới đáng chú ý
của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, được
Quốc hội khóa XV thông qua ngày 27/6/2024, tại Kỳ họp
thứ 7, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Không được cho trẻ dưới 10 tuổi và cao dưới
1,35m ngồi cùng hàng ghế tài xế
Điều 10 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ
2024 bổ sung quy tắc chung trong giao thông đường bộ.
Trong đó quy định tại khoản 3 như sau: “Khi chở trẻ
em dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô
không được cho trẻ em ngồi cùng hàng ghế với người
lái xe, trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế; người
lái xe phải sử dụng, hướng dẫn sử dụng thiết bị
an toàn phù hợp cho trẻ em”.
Quy định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026
theo khoản 2 Điều 88 Luật Trật tự, an toàn giao thông
đường bộ 2024.
Xe đưa đón trẻ em mầm non, học sinh phải có
thiết bị cảnh báo, chống bỏ quên trẻ
Điều 46 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ
2024 quy định xe ô tô kinh doanh vận tải chở trẻ em mầm
non, học sinh phải bảo đảm các điều kiện quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật này; có thiết
bị ghi nhận hình ảnh trẻ em mầm non, học sinh và thiết
bị có chức năng cảnh báo, chống bỏ quên trẻ em trên
xe; có niên hạn sử dụng không quá 20 năm; có màu sơn
theo quy định của Chính phủ. Xe ô tô chở trẻ em mầm
non hoặc học sinh tiểu học phải có dây đai an toàn phù
hợp với lứa tuổi hoặc sử dụng xe có ghế ngồi phù
hợp với lứa tuổi theo quy định của pháp luật.
Xe ô tô kinh doanh vận tải kết hợp với hoạt động đưa
đón trẻ em mầm non, học sinh phải đáp ứng các yêu cầu
theo quy định tại khoản 3 Điều 10, khoản 1 và khoản 2
Điều 35 của Luật này; có thiết bị ghi nhận hình ảnh
trẻ em mầm non, học sinh và thiết bị có chức năng cảnh
báo, chống bỏ quên trẻ em trên xe đáp ứng yêu cầu
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
Khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh tiểu học phải bố
trí tối thiểu 01 người quản lý trên mỗi xe ô tô để
hướng dẫn, giám sát, duy trì trật tự và bảo đảm an
toàn cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học trong suốt
chuyến đi.
Trường hợp xe từ 29 chỗ trở lên (không kể chỗ của
người lái xe) mà chở từ 27 trẻ em mầm non và học sinh
tiểu học trở lên phải bố trí tối thiểu 02 người
quản lý trên mỗi xe ô tô. Người quản lý, người lái
xe có trách nhiệm kiểm tra trẻ em mầm non, học sinh tiểu
học khi xuống xe; không được để trẻ em mầm non, học
sinh tiểu học trên xe khi người quản lý và người lái
xe đã rời xe.
Người lái xe ô tô đưa đón trẻ em mầm non, học sinh
phải có tối thiểu 02 năm kinh nghiệm lái xe vận tải
hành khách.
Cơ sở giáo dục phải xây dựng quy trình bảo đảm an
toàn khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh; hướng dẫn
cho lái xe và người quản lý trẻ em mầm non, học sinh
nắm vững và thực hiện đúng quy trình; chịu trách nhiệm
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ khi tổ
chức đưa đón trẻ em mầm non, học sinh của cơ sở giáo
dục đó.
Xe đưa đón trẻ em mầm non, học sinh được ưu tiên
trong tổ chức phân luồng, điều tiết giao thông, bố trí
nơi dừng xe, đỗ xe tại khu vực trường học và tại
các điểm trên lộ trình đưa đón trẻ em mầm non, học
sinh.
Bổ sung trường hợp xe mô tô hai bánh, xe gắn
máy được chở tối đa 02 người/xe
Theo khoản 1 Điều 33 Luật này quy định người lái xe mô
tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người, trừ
những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người:
Chở người bệnh đi cấp cứu; áp giải người có hành
vi vi phạm pháp luật; trẻ em dưới 12 tuổi; người già
yếu hoặc người khuyết tật.
Như vậy, so với Luật Giao thông đường bộ 2008 thì Luật
Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 đã bổ sung
thêm trường hợp xe máy được chở tối đa hai người
khi tham gia giao thông đối với một số trường hợp nêu
trên.
Loại biển số xe không được định danh
Theo khoản 3 Điều 36 Luật Trật tự an toàn giao thông
đường bộ 2024, biển số xe được quản lý theo mã định
danh, trừ biển số xe quy định tại điểm b khoản 2 Điều
36. Việc quản lý biển số xe theo mã định danh được
quy định như sau:
- Biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh
của chủ xe là cá nhân, tổ chức; trường hợp tổ chức
chưa có mã định danh thì quản lý theo mã số thuế,
quyết định thành lập hoặc giấy tờ tương đương;
- Trường hợp xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng không
sử dụng được hoặc chuyển quyền sở hữu xe, chủ xe
được giữ lại số biển số xe trong thời hạn 05 năm
để đăng ký cho xe khác thuộc sở hữu của mình; quá
thời hạn nêu trên, số biển số xe đó bị cơ quan đăng
ký xe thu hồi, nhập vào kho biển số xe để đăng ký,
cấp cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp chuyển
nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế xe gắn với
biển số xe trúng đấu giá;
- Trường hợp chủ xe có thay đổi thông tin về trụ sở,
nơi thường trú, tạm trú thì được giữ lại số biển
số xe định danh.
Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về biển số xe; đối với biển số xe thuộc
phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng quy định quy chuẩn kỹ thuật.
Do vậy, biển số xe nền màu đỏ, chữ và số màu trắng
cấp cho xe quân sự không quản lý theo mã định danh như
các loại biển số xe thông thường.
Cho phép đấu giá biển số xe máy, giá khởi điểm
từ 5 triệu đồng
Theo Điều 37, giá khởi điểm một biển số xe mô tô, xe
gắn máy đưa ra đấu giá không thấp hơn 05 triệu đồng.
Người tham gia đấu giá cần đặt trước một khoản
tiền không thấp hơn mức giá khởi điểm của loại biển
số xe đưa ra đấu giá.
Trong trường hợp khi hết thời hạn đăng ký tham gia đấu
giá mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá
hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng
chỉ có một người tham gia đấu giá hoặc có nhiều
người tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người trả
giá ít nhất bằng giá khởi điểm của một biển số xe
đưa ra đấu giá thì người đó được xác định là
người trúng đấu giá biển số xe.
Giấy phép lái xe có 12 điểm, nếu vi phạm sẽ bị
trừ
Điều 58 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ
2024 nêu rõ điểm của giấy phép lái xe được dùng để
quản lý việc chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn
giao thông đường bộ của người lái xe trên hệ thống
cơ sở dữ liệu về trật tự, an toàn giao thông đường
bộ, bao gồm 12 điểm.
Số điểm trừ mỗi lần vi phạm tùy thuộc tính chất,
mức độ của hành vi vi phạm pháp luật về trật tự,
an toàn giao thông đường bộ. Dữ liệu về điểm trừ
giấy phép lái xe của người vi phạm sẽ được cập
nhật vào hệ thống cơ sở dữ liệu ngay sau khi quyết
định xử phạt có hiệu lực thi hành và thông báo cho
người bị trừ điểm giấy phép lái xe biết.
Giấy phép lái xe chưa bị trừ hết điểm và không bị
trừ điểm trong thời hạn 12 tháng từ ngày bị trừ điểm
gần nhất thì được phục hồi đủ 12 điểm.
Trường hợp giấy phép lái xe bị trừ hết điểm thì
người có giấy phép lái xe không được điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo giấy phép
lái xe đó. Sau thời hạn ít nhất là 06 tháng kể từ
ngày bị trừ hết điểm, người có giấy phép lái xe
được tham gia kiểm tra nội dung kiến thức pháp luật về
trật tự, an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại
khoản 7 Điều 61 của Luật này do lực lượng Cảnh sát
giao thông tổ chức, có kết quả đạt yêu cầu thì được
phục hồi đủ 12 điểm.
Giấy phép lái xe sau khi đổi, cấp lại, nâng hạng được
giữ nguyên số điểm của giấy phép lái xe trước khi
đổi, cấp lại, nâng hạng.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có
thẩm quyền trừ điểm giấy phép lái xe...
Thay đổi phân hạng giấy phép lái xe và tăng độ
tuổi tối đa của người lái xe
Từ ngày 01/01/2025, giấy phép lái xe được phân chia thành
15 hạng, tăng 2 hạng so với quy định hiện nay, gồm các
hạng GPLX: A, A1, B, B1, C, C1, D, D1, D2, BE, C1E, CE, DE, D1E,
D2E. Đặc biệt, mở rộng phạm vi điều chỉnh với cả
xe điện.
Đồng thời tăng độ tuổi tối đa của người lái xe
theo điểm e khoản 1 Điều 59 Luật Trật tự an toàn giao
thông đường bộ 2024, tuổi tối đa của người lái xe ô
tô chở người (kể cả xe buýt) trên 29 chỗ (không kể
chỗ của người lái xe), xe ô tô chở người giường nằm
là đủ 57 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với
nữ. Trước đây, khoản 1 Điều 60 Luật Giao thông đường
bộ 2008 quy định tuổi tối đa của người lái xe ô tô
chở người trên 30 chỗ ngồi là 50 tuổi đối với nữ
và 55 tuổi đối với nam.
Ngoài ra, người điều khiển phương tiện tham gia giao
thông đường bộ phải bảo đảm điều kiện sức khỏe
phù hợp với từng loại phương tiện được phép điều
khiển. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về tiêu chuẩn
sức khỏe, việc khám sức khỏe đối với người lái
xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng; việc khám sức
khỏe định kỳ đối với người hành nghề lái xe ô tô;
xây dựng cơ sở dữ liệu về sức khỏe của người lái
xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy
định độ tuổi của người lái xe trong lực lượng quân
đội, công an làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh./.
Hữu Tri