Một số nội dung cơ bản, quan trọng của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Ngày 19/02/2025, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) và Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025. Từ cơ sở
chính trị rất chắc chắn, đầy đủ và được chỉ đạo xuyên suốt trong tư duy, đường lối
lãnh đạo của Đảng ta trong nhiều năm qua và trọng tâm hơn trong những năm gần
đây, Luật Ban hành VBQPPL tiếp tục:
1. Đơn giản hóa hệ thống VBQPPL; tăng cường kiểm
soát quyền lực trong xây dựng và thi hành pháp luật; phân định rõ thẩm
quyền lập pháp và lập quy, cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đơn giản hóa hệ thống VBQPPL: Theo
Luật hiện hành, hệ thống VBQPPL hiện nay bao gồm 41 hình thức, do 36 chủ thể có
thẩm quyền ban hành. Với chủ trương tiếp tục “đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại
hình VBQPPL”, trong đó xác định lại thẩm quyền ban hành VBQPPL của một số chủ
thể theo Hiến pháp năm 2013 và căn cứ vào định nghĩa mới về VBQPPL quy định tại
Điều 2, so với Luật hiện hành, dự thảo Luật quy định tổng số 36 hình thức
VBQPPL (giảm 05 hình thức) và do 30 chủ thể có thẩm quyền ban hành (giảm 06 chủ
thể).
Thứ hai, tăng cường kiểm soát quyền lực trong xây dựng
và tổ chức thi hành VBQPPL: Với mục tiêu thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ
trương, đường lối của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng pháp luật và nâng cao
hiệu quả kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm
trong xây dựng VBQPPL, dự thảo Luật quy định về nguyên tắc xây dựng, ban hành
VBQPPL (Điều 5) trên cơ sở kế thừa, có sửa đổi, bổ sung nội dung Điều 5 của
Luật hiện hành, theo đó, bổ sung một số nguyên tắc quan trọng: (i) Bảo đảm chủ
quyền, an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia, dân tộc; kiểm soát quyền lực, phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; phòng, chống lợi ích nhóm, lợi ích cục
bộ; (ii) xây dựng, ban hành VBQPPL phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; bảo đảm việc thực hiện chủ trương phân quyền, phân cấp;
kịp thời giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn; vấn đề mới, xu
hướng mới; yêu cầu quản lý nhà nước và khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi
nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phân định rõ thẩm quyền ban hành luật, pháp
lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội với thẩm quyền ban
hành VBQPPL dưới luật: Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận
số 119-KL/TW và tham khảo kinh nghiệm của một số nước, dự thảo Luật đã phân
định rõ thẩm quyền ban hành VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội với
thẩm quyền ban hành VBQPPL dưới luật.
Đặc biệt, hoàn
thiện quy định về nội dung VBQPPL của Quốc hội theo hướng quy định Quốc hội ban
hành luật để quy định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội theo quy định
của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội nhằm “luật hóa đến mức tối đa những vấn
đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”. Quốc hội
chỉ ban hành nghị quyết trong 03 trường hợp (thực hiện thí điểm một số chính
sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội khác với quy định của luật
hiện hành; tạm ngưng, điều chỉnh hiệu lực hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ
hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng yêu cầu cấp bách về phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; vấn đề khác do
Quốc hội quyết định), còn tất cả các vấn đề còn lại đều ban hành luật để điều
chỉnh.
2. Bổ sung hình thức nghị quyết quy phạm pháp
luật của Chính phủ: Trước đây, đã có hình thức nghị quyết của chính Phủ (Luật
năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 2002). Luật năm 2008 đã bỏ hình thức nghị quyết
và chỉ giữ lại hình thức nghị định của Chính phủ. Tuy nhiên, thực tiễn công tác
chỉ đạo, điều hành và phản ứng chính sách của Chính phủ trong gian qua cho thấy
rất cần hình thức này và việc bổ sung là hợp lý. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của
Bộ Chính trị, khoản 5 Điều 4 và khoản 2 Điều 14 dự thảo Luật bổ sung quy định
về thẩm quyền của Chính phủ ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để: (i) giải
quyết các vấn đề cấp bách, quan trọng phát sinh từ thực tiễn và để áp dụng
trong một thời gian nhất định, phạm vi cụ thể thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
(ii) tạm ngưng, điều chỉnh hiệu lực hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc
một phần nghị định của Chính phủ đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; (iii) thực hiện thí
điểm một số chính sách chưa có pháp luật điều chỉnh thuộc thẩm quyền của Chính
phủ hoặc khác với nghị định, nghị quyết hiện hành.
3. Đổi mới việc xây dựng chương trình lập pháp
của Quốc hội: Về xây dựng và thực hiện định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì, phối hợp với Chính phủ, cơ quan, tổ
chức xây dựng Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội, hoàn thành trước ngày
01 tháng 10 của năm đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khoá mới, để trình Bộ Chính
trị phê duyệt. Về xây dựng, triển khai thực hiện chương trình lập pháp hằng
năm, thẩm quyền quyết định Chương trình là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; gồm 03
bước: (i) Đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết; (ii) Rà soát, đề xuất ý
kiến về dự kiến Chương trình; (iii) Xem xét, thông qua Chương trình. Thời điểm
gửi đề xuất và thời điểm thông qua Chương trình lập pháp hằng năm: chậm nhất
ngày 01 tháng 8 của năm trước, đề xuất phải được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc
hội để lập dự kiến Chương trình lập pháp của năm tiếp theo.
Để bảo đảm
tính linh hoạt, thông thoáng của Chương trình lập pháp, khoản 2 Điều 26 dự thảo
Luật quy định, trường hợp cần thiết để giải quyết ngay vấn đề bất cập, phát
sinh từ thực tiễn, cơ quan trình trình dự án luật, nghị quyết để Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội thẩm tra, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến và
quyết định bổ sung vào Chương trình lập pháp hằng năm, trình Quốc hội thông qua
ngay tại kỳ họp hoặc tại kỳ họp gần nhất.
4. Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL:
Nhằm thể chế hóa chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng
pháp luật, dự thảo Luật quy định đổi mới toàn diện, mạnh mẽ quy trình xây dựng,
ban hành VBQPPL theo hướng: (i) vừa bảo đảm dân chủ, minh bạch, kịp thời, khả
thi, hiệu quả, dễ áp dụng trên thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, vừa nâng
cao “năng suất”, vừa chú trọng bảo đảm “chất lượng” VBQPPL; (ii) bảo đảm đánh
giá tác động thực chất; (iii) bảo đảm cơ chế tiếp thu, giải trình, ý kiến góp ý
của các đối tượng chịu tác động, không để “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ”,
không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và quy
định pháp luật. Nội dung đổi mới trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL tập
trung vào 02 vấn đề lớn, trọng tâm: (i) đổi mới quy trình xây dựng, ban hành
VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; (ii) hoàn thiện quy trình xây
dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn, ban hành VBQPPL trong
trường hợp đặc biệt.
5. Quy định về vai trò của cơ quan trình dự án luật
trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự án luật theo ý kiến của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội
Với tinh thần mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một người chủ trì và chịu trách nhiệm,
trên cơ sở chủ trương của Đảng về việc đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng
đầu trong công tác xây dựng pháp luật, quy định về trách nhiệm của cấp ủy, tổ
chức đảng, đảng viên, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền về kiểm soát quyền,
lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật([1]), cần thiết
phải phân định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội
trong quy trình xây dựng pháp luật. Theo đó, Chính phủ làm đúng vai là cơ quan
trình dự án luật và chịu trách nhiệm đến cùng với dự án luật do mình trình;
Quốc hội là cơ quan lập pháp, có quyền thông qua hoặc không thông qua dự án
luật do Chính phủ trình.
Để bảo đảm chất
lượng của dự án luật, dự thảo Luật quy định về việc lùi thời điểm trình Quốc
hội thông qua để tiếp tục hoàn thiện trình Quốc hội tại kỳ họp tiếp theo hoặc
trình lại trong 02 trường hợp: (i) trường hợp cơ quan trình và Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội chưa thống nhất; (ii) trường hợp dự thảo chưa được thông qua.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật: Quy định rõ về trách nhiệm xin ý kiến các cơ quan
có thẩm quyền của Đảng trong xây dựng VBQPPL và trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trong công tác xây dựng,
ban hành và tổ chức thi hành VBQPPL; chịu trách nhiệm khi để xảy ra
tình trạng chậm tiến độ trình văn bản hoặc ban hành văn bản trái pháp luật, để
xảy ra hành vi tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây
dựng pháp luật.
7. Hướng dẫn áp dụng VBQPPL: Thực hiện ý kiến
chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 119-KL/TW và ý kiến chỉ đạo của đồng
chí Tổng Bí thư tại Thông báo số 108-TB/VPTW về việc “mở rộng thẩm quyền hướng
dẫn áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật
theo hướng ban hành nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, hướng dẫn áp dụng
pháp luật để bảo đảm sức sống của VBQPPL thay vì thường xuyên phải sửa đổi,
điều chỉnh”, bên cạnh các quy định về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh,
nghị quyết, dự thảo Luật bổ sung quy định về hướng dẫn áp dụng VBQPPL với các
nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, hướng dẫn áp dụng VBQPPL được thực hiện đối với
văn bản quy phạm pháp luật trừ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ hai, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành VBQPPL
xem xét, hướng dẫn áp dụng đối với văn bản do mình ban hành bằng văn bản hành
chính, trên cơ sở đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trường hợp cần thiết,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hành chính để hướng dẫn áp dụng.
Thứ ba, việc hướng dẫn áp dụng VBQPPL được thực hiện
theo các trường hợp, nguyên tắc, tiêu chí tương tự như giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh, nghị quyết trong 02 trường hợp (khi có cách hiểu khác nhau về
quy định của văn bản; chưa thống nhất việc áp dụng các văn bản) và 04 thứ tự
nguyên tắc, tiêu chí (phù hợp với nghĩa phổ thông của từ ngữ sử dụng trong
VBQPPL; căn cứ nội dung liên quan đến quy định cần giải thích, hướng dẫn áp
dụng trong quá trình xây dựng VBQPPL; phù hợp với quan điểm chỉ đạo, mục đích, tinh
thần ban hành VBQPPL; bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật). Việc
hướng dẫn áp dụng VBQPPL không được đặt ra quy định mới.
8. Các vấn đề khác: Ngoài 07 vấn đề lớn như trên,
dự thảo Luật còn quy định về một số vấn đề về hiệu lực của VBQPPL; bổ sung quy
định về tổ chức thi hành VBQPPL và nguồn lực thi hành; về hiệu lực thi hành và
điều khoản chuyển tiếp trong một số trường hợp cần thiết./.
Hải Lam Phương