Để Luật Phòng, chống bạo lực gia đình trở thành chỗ dựa cho người bị bạo lực
(binhthuan.gov.vn) Bạo lực gia đình (BLGĐ) từ lâu không
còn là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định
xã hội. Để đạt được hiệu quả trong công tác phòng, chống BLGĐ, rất cần sự quan
tâm phối hợp của tất cả các cơ quan liên quan và các thành viên trong xã hội.
Qua điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ công bố năm 2020 cho thấy: Có 90,4%
phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác hoặc tình dục không tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ có
4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của cơ quan chức năng. Người bị bạo lực không tìm sự
giúp đỡ từ các cơ quan chính quyền chủ yếu do sợ bị tai tiếng, kỳ thị và phiền
hà. Điều đó dẫn đến họ tiếp tục chịu đựng, hoặc phản vệ theo cách tiêu cực để
chống trả lại hành vi BLGĐ và nhiều trường hợp chịu hậu quả nặng nề, như con
sát hại cha mẹ, vợ chồng sát hại nhau do tâm lý bức xúc dồn nén. Do vậy, Luật
cần chú trọng cơ chế phối hợp trách nhiệm cụ thể của các cơ quan tổ chức. Vì
BLGĐ đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ, ngành, địa phương, cơ quan trong việc hỗ
trợ, tránh việc biện pháp không kịp thời, tương xứng với hành vi vi phạm dẫn
đến người có hành vi vi phạm BLGĐ có tâm lý coi thường pháp luật.
Trên cơ sở
đó, toàn bộ Chương III của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 (có hiệu lực từ ngày
1/7/2023) là các điều khoản quy định về bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong
phòng, chống BLGĐ, trong đó có nội dung liên quan đến chính quyền địa phương
như: UBND cấp xã nơi xảy ra hành vi BLGĐ là một trong những nơi tiếp nhận tin
báo, tố giác về hành vi BLGĐ; Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm xử lý hoặc
phân công xử lý ngay khi tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ hoặc nhận
được báo cáo về hành vi BLGĐ của tổ chức, cá nhân; Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy
ra hành vi BLGĐ quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc mỗi lần không quá 03
ngày; Chủ tịch UBND cấp xã nơi người có hành vi BLGĐ cư trú quyết định và tổ
chức thực hiện biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi BLGĐ trong cộng đồng
dân cư…
Đối với việc
soạn dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống BLGĐ
2022 có những nội dung đáng chú ý liên quan đến quy định cấm tiếp xúc đối với
người có hành vi BLGĐ. Cụ thể, người bị BLGĐ, người giám hộ, người đại diện
theo pháp luật của người bị BLGĐ khi thấy hành vi BLGĐ gây tổn hại hoặc đe dọa
đến sức khỏe, tính mạng của người bị BLGĐ thì đề nghị Chủ tịch UBND cấp xã nơi
xảy ra hành vi bạo lực ra quyết định cấm tiếp xúc. Ngoài ra, khi có sự đồng ý
của những người trên thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể đề nghị
Chủ tịch UBND cấp xã nơi ra quyết định cấm tiếp xúc, trên nguyên tắc bảo đảm
lợi ích cho người bị BLGĐ là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng
tự chăm sóc, người đang điều trị bệnh. Thời gian quyết định cấm tiếp xúc không
quá 03 ngày cho mỗi lần kể từ thời điểm người có hành vi BLGĐ nhận quyết định
và không quá 02 lần quyết định cấm tiếp xúc liên tiếp. Dự thảo quy định người
bị cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã chỉ được tiếp xúc
người bị BLGĐ khi có việc cưới, việc tang; gia đình có người bị tai nạn, bị
bệnh nặng hoặc tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh.
Cũng theo dự
thảo, khoảng cách cấm tiếp xúc là 50m nếu không có tường ngăn hoặc vách ngăn
bảo đảm an toàn. Bên cạnh đó, người bị cấm tiếp xúc không được sử dụng điện
thoại, fax, thư điện tử hoặc sử dụng phương tiện, công cụ khác để thực hiện
hành vi BLGĐ. Hiện nay, Nghị định 08/2009/NĐ-CP, ngày 04/02/2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống BLGĐ
hiện hành quy định khoảng cách cấm tiếp xúc là 30m. Tại sao lại là con số 50m
thay vì 30m trong dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật
Phòng, chống BLGĐ 2022? Theo giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo thì thực
tiễn cho thấy một người bình thường có thể ném xa 30 - 50m, trường hợp đặc biệt
có thể trên 50m và người trưởng thành chạy cự ly 100m mất khoảng 17 - 25 giây;
vận động viên khoảng 10 - 15 giây. Như vậy, quy định ở khoảng cách không có vật
cản với người bình thường ở khoảng cách 50m có thể được coi là an toàn. Mặt
khác, trong điều kiện có vách ngăn kiên cố thì việc quy định khoảng cách là
không cần thiết. Vì vậy, quy định như dự thảo vừa để bảo đảm an toàn cho người
bị BLGĐ vừa là cơ sở để xác định vi phạm cấm tiếp xúc./.
Hải Lam Phương